Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế có nội dung phong phú, sâu sắc và toàn diện; trong đó, những nguyên tắc cơ bản cùng giá trị hiện thực của nó đã, đang và sẽ tiếp tục là cơ sở, nền tảng để Đảng ta vận dụng, thiết lập các quan hệ quốc tế, tạo tiền đề cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

doan ket quoc te
Nhân dân Ba Lan nồng nhiệt đón chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đoàn đại biểu Chính phủ
 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 7/1957. Ảnh: tư liệu.

Những nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế

Ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: một quốc gia, dân tộc muốn có sức mạnh phải thoát ra khỏi tình trạng biệt lập, phải mở cửa, tăng cường hợp tác với bên ngoài; tình trạng bế quan tỏa cảng chỉ làm đất nước suy yếu và đưa đến những hậu quả chính trị nghiêm trọng. Năm 1924, trong thư gửi Pêtơrốp, Tổng Thư ký Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, Người viết: “Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập... không có những quan hệ và tiếp xúc giữa các lục địa với nhau... do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau”1.

Với tư duy nhạy bén, sắc sảo và tầm nhìn chiến lược, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”2. Tư tưởng của Người thể hiện hai nội dung quan trọng: Một là, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Hai là, tinh thần đoàn kết, hợp tác không bị giới hạn bởi châu Á hay châu Âu, bởi da vàng hay da trắng như luận điệu tuyên truyền của thuyết Đại Đông Á thời đó.

Thấy được tầm quan trọng của đoàn kết, hợp tác quốc tế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới một cách chặt chẽ, sâu sắc. Trước hết, theo Người, đó phải là tinh thần đoàn kết, hợp tác quốc tế đối với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Cùng với đó, Người đặc biệt quan tâm tới việc thiết lập quan hệ đối ngoại với các nước tư bản chủ nghĩa để tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân tiến bộ đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới...”3.

Từ thực tiễn cách mạng, Người rút ra kết luận quan trọng: “Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, điều đó chứng minh rằng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”4. Như vậy, đoàn kết, hợp tác quốc tế đã thực sự trở thành một nhân tố quan trọng, không thể thiếu, góp phần tạo sức mạnh tổng hợp, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tuy nhiên, để đoàn kết, hợp tác quốc tế đúng phương hướng, đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả, Người cũng nêu ra những nguyên tắc căn bản.

Thứ nhất, đoàn kết, hợp tác quốc tế phải vì lợi ích dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh yêu cầu xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, “phải tuân thủ theo phương châm “Tổ quốc trên hết” ở mọi nơi và mọi lúc”5. Theo Người, phải thực hiện “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Đây là một phương pháp cách mạng được Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Người yêu cầu những người cách mạng cần nhận thức đúng và vận dụng nhuần nhuyễn trong thực tiễn. Cái bất biến là độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân; là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cái vạn biến là sự thay đổi của những điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan vận động xoay xung quanh cái bất biến, tác động, ảnh hưởng đến cái bất biến. Chính cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là một điển hình, mẫu mực về xử lý mối quan hệ giữa tính kiên định về nguyên tắc trong chiến lược và tính linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, cách thức thực hiện; về quan hệ giữa mục tiêu lâu dài và mục tiêu trước mắt.

Theo đó, trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc6, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi “Kính gửi: Đại Anh Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Xô và các nước thành viên khác của Liên hợp quốc”, Người đã nêu rõ những nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của nhân dân Việt Nam là: Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực, dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc, v.v. Trên cơ sở tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng trên thế giới, tạo cơ sở cho việc giành được độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới cho sự đoàn kết và hội nhập quốc tế sau này.

Thứ hai, tự lực, tự cường trong đoàn kết, hợp tác quốc tế. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong đấu tranh giải phóng dân tộc thì phải “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”7, đồng thời “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”8. Còn trong đoàn kết, hợp tác quốc tế “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”9. Người nhấn mạnh: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”10. Như vậy, tinh thần cơ bản của nguyên tắc này là, khi thiết lập các quan hệ hợp tác quốc tế thì phải tăng cường thực lực, sức mạnh quốc gia; phải từ sự giúp đỡ của quốc tế để tự mình phát triển toàn diện cả về sức mạnh vật chất, kinh tế đến sức mạnh văn hóa, con người, từ sức mạnh của quá khứ đến sức mạnh của hiện tại và tương lai.

Thứ ba, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, công bằng trong đoàn kết, hợp tác quốc tế. Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”11. Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng một nền hòa bình chân chính trên thế giới, một trật tự thế giới mới, phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền cơ bản của tất cả các dân tộc. Công bằng và bình đẳng phải là nguyên tắc chủ đạo trên thế giới, để đảm bảo cho mỗi dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của mình dựa trên những giá trị văn hóa dân tộc và tôn trọng sự lựa chọn con đường phát triển của mỗi quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Các quốc gia được bình đẳng trong việc tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế; và hòa bình thế giới phải được tất cả các dân tộc quyết định, không phụ thuộc vào một nhóm cầm quyền của một thiểu số các nước lớn.

Giá trị hiện thực của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế trong sự nghiệp đổi mới đất nước

Từ năm 1986, trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước với trọng tâm là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đảng ta chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam luôn thể hiện sự chủ động, tích cực tham gia vào các quá trình, các tổ chức quốc tế; phát huy vai trò tích cực, chủ động trong việc đưa ra các sáng kiến hội nhập quốc tế, là thành viên có trách nhiệm với các tổ chức tham gia, nhưng Việt Nam không nóng vội, chủ quan. Là quốc gia ngày càng có vị thế quan trọng trên trường quốc tế, có tiếng nói quan trọng trên các diễn đàn và các tổ chức quốc tế, nhưng Việt Nam không áp đặt quan điểm của mình trong các quan hệ quốc tế, luôn có tinh thần hợp tác, cùng phát triển.

Gần 40 năm đổi mới là một chặng đường để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu, nhất là việc tham gia các tổ chức quốc tế lớn và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với những đối tác rộng lớn, như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA), Hiệp định đối tác toàn diện của ASEAN với các đối tác (RCEP), v.v. Với Hiệp định EVFTA, Việt Nam là nước đang phát triển đầu tiên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương có quan hệ thương mại tư do với Liên minh châu Âu (EU). Điều này khẳng định vai trò và vị thế địa - chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực, khẳng định Việt Nam - từ quốc gia đi sau trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng đã có quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, tạo sự gắn kết quốc tế mạnh mẽ cả ở cấp độ khu vực và trên toàn thế giới.

Từ một đất nước không có tên trên bản đồ thế giới, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ; vươn lên trở thành một nền kinh tế năng động hàng đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, một mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế, hiệp định thương mại tự do, chuỗi sản xuất khu vực và toàn cầu. Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, Việt Nam trở thành địa điểm gặp gỡ, giao lưu văn hóa, kinh tế, đối thoại an ninh chính trị an toàn của hầu hết các nước và các tổ chức quốc tế lớn trên thế giới.

Là thành viên tích cực và có trách nhiệm trong các tổ chức uy tín trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam tham gia vào nhiều tổ chức, như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016 và 2023 - 2025, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018. Đảng Cộng sản Việt Nam thiết lập quan hệ đối ngoại Đảng với 254 chính đảng ở 114 quốc gia12.

Những năm gần đây, Việt Nam đảm nhiệm thành công nhiều cương vị quan trọng tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế, khu vực, nhất là vai trò nước chủ nhà APEC 2017, Chủ tịch ASEAN 2020, AIPA 41, Ủy viên Không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 77. Việt Nam cũng tổ chức thành công Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN, Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2; Ủy viên Không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Đặc biệt, ngày 07/6/2020, tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York (Mỹ), Việt Nam đã được bầu vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2020 - 2021, với số phiếu 192/193. Đây chính là sự khẳng định vị thế, uy tín ngày càng lớn của Việt Nam trên thế giới.

Cùng với các thành tựu về công tác đối ngoại, thế giới đánh giá rất cao lực lượng gìn giữ hòa bình của Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã có 799 lượt cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại 03 phái bộ và Trụ sở Liên hợp quốc, trong đó có 792 cán bộ quân đội và 7 cán bộ công an13. Hoạt động của các chiến sĩ “mũ nồi xanh” Quân đội nhân dân Việt Nam tại các Phái bộ và các đội tham gia tìm kiếm, cứu nạn ở Thổ Nhĩ Kỳ đã không chỉ tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, mà thông qua đó góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhân văn và có trách nhiệm với cộng đồng tới bạn bè quốc tế.

Có thể khẳng định, chưa bao giờ hình ảnh đất nước và con người Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, mến khách, thủy chung, chân thành, là đối tác tin cậy của bạn bè quốc tế lại nổi bật như hiện nay. Việt Nam trở thành tâm điểm trong những chủ đề về phát triển, tinh thần trách nhiệm, tích cực vì những nỗ lực toàn cầu của tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam được đánh giá là “ngôi sao sáng của châu Á”.

Hiện nay, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo. Tuy nhiên, cục diện đời sống chính trị thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, mau lẹ, quan hệ quốc tế có những thay đổi mang tính bước ngoặt. Do vậy, việc xác lập những quan điểm chiến lược trong đoàn kết, hội nhập quốc tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong quá trình đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” vừa mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vừa là cơ sở để phát huy cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc và là một trong những đảm bảo quan trọng nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội./.

PGS, TS. ĐẶNG QUANG ĐỊNH

Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân

Thu Hiền (st)

___________________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQGST, H. 2011, tr. 284.

2 - Sđd, Tập 2, tr. 329.

3 - Sđd, Tập 15, tr. 675.

4 - Sđd, Tập12, tr. 31 - 32.

5 - Sđd, Tập 2, tr. 513.

6 - Sđd, Tập 4, tr. 520.

7 - Sđd, Tập 3, tr. 596.

8 - Sđd, Tập 4, tr. 3.

9 - Sđd, Tập 4, tr. 147.

10 - Sđd, Tập 7, tr. 445.

11 - Sđd, Tập 12, tr. 732.

12 - Hội đồng Lý luận Trung ương: 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,  Nxb CTQGST, H. 2020, tr. 203.

13 - https://dantri.com.vn/xa-hoi/chu-tich-nuoc-cu-4-si-quan-di-gin-giu-hoa-binh-o-chau-phi-20240222192724663.htm

Bài viết khác: