Thứ sáu, 26/04/2024

17
Thanh Hóa tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng - Ảnh: baothanhhoa.vn

Trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của phương thức lãnh đạo và yêu cầu phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vừa phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, vừa tránh bao biện làm thay, vừa tránh buông lỏng của các tổ chức đảng. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị trong thời gian qua đã mang lại những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tốt hơn vai trò của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng qua 30 năm đổi mới - thành tựu và hạn chế

- Về mặt nhận thức: Trong thời kỳ đổi mới, Đảng rất coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị mà trọng tâm là với Nhà nước. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X. Khái niệm “phương thức lãnh đạo” và “đổi mới phương thức lãnh đạo” được nhận thức ngày càng rõ hơn, thể hiện tập trung qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Văn kiện các Đại hội của Đảng đều đề cập đến nhiệm vụ, yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Chẳng hạn, Văn kiện Đại hội XII khẳng định “Nâng cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước”; đã ngày càng nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, giữa Đảng với các tổ chức chính trị - xã hội, xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của Đảng và thẩm quyền, trách nhiệm của Nhà nước.

- Về mặt thực tiễn: Chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, với chính quyền địa phương các cấp; vừa giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng vừa phát huy được vai trò, tính chủ động sáng tạo, chức năng nhiệm vụ các tổ chức này, giảm bớt được sự chồng chéo, “lấn sân” giữa các tổ chức đảng với các tổ chức của Nhà nước.

Phương thức lãnh đạo của Đảng được xác lập phù hợp với đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng nhánh quyền lực (lập pháp - hành pháp - tư pháp), phù hợp với các cấp chính quyền (Trung ương - địa phương); phù hợp với nguyên tắc hiệp thương dân chủ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Phương thức lãnh đạo của Đảng được đổi mới theo hướng dân chủ và pháp quyền, nghĩa là Đảng tôn trọng các cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, tôn trọng Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh đạo nhưng không áp đặt mà trên cơ sở dân chủ, phát huy dân chủ trong thảo luận, trao đổi nhằm tạo ra sự thống nhất chung. Đảng lãnh đạo trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật, như quy định của Điều 4, Hiến pháp năm 2013 “Các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật”.

Đảng xây dựng và ban hành quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của các cấp ủy; ban hành nhiều quy chế, quy định về quan hệ giữa cấp ủy, các tổ chức đảng, cơ quan đảng với các tổ chức, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Xây dựng, tổ chức ký kết quy chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Đảng coi trọng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên trong hệ thống chính trị nhằm chống tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, “lợi ích nhóm”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Đảng xác định ngày càng rõ hơn trách nhiệm tập thể và cá nhân trong lãnh đạo, nhất là trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước, đoàn thể.

Đảng coi trọng xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, hệ thống chính trị, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan đảng, đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng.

Tóm lại, trong thời gian qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị mà trọng tâm là đối với Nhà nước đã có những đổi mới quan trọng. Thông qua các nghị quyết của Trung ương cũng như thông qua các tổ chức đảng (Đảng đoàn, Ban Cán sự, cấp ủy) và thông qua các đảng viên hoạt động trong các tổ chức đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đã lãnh đạo các tổ chức Nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội hoạt động theo đúng cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức. Hoạt động của Quốc hội ngày càng đổi mới, ngày càng dân chủ, thực quyền hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư luận xã hội. Hoạt động của Chính phủ ngày càng năng động, hiệu lực quản lý, điều hành của Chính phủ ngày càng được nâng cao, phát huy vai trò của một Chính phủ hành động phục vụ nhân dân, kiến tạo phát triển, giảm bớt tình trạng bao biện, làm thay, “lấn sân” giữa Đảng và Chính phủ. Hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân có nhiều đổi mới; góp phần bảo đảm cho các cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của người dân, bảo vệ quyền con người, bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng đa dạng, năng động, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hội viên, đoàn viên, tăng cường đồng thuận xã hội, phát huy chức năng giám sát và phản biện xã hội.

Những thành tựu nêu trên bắt nguồn từ đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, từ những thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước. Đó chính là cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc bảo đảm cho quá trình đổi mới đúng hướng, hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng. Thành tựu đạt được gắn liền với tư duy sáng tạo, quyết tâm chính trị cao, nhãn quan chính trị sắc bén của Đảng, trực tiếp là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị.

Tuy đã có nhiều cố gắng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị, song như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn chậm..., phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung còn lúng túng. Chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền”(2). Vẫn còn tình trạng cấp ủy bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực. Một số nội dung cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; về mối quan hệ công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, về quyền làm chủ của nhân dân, nhất là quyền làm chủ trực tiếp... còn chậm được ban hành, cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện.

Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, trước hết là do bản thân việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế... là vấn đề khó, mới mẻ, chưa có tiền lệ, đòi hỏi phải tìm tòi, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Mặt khác, phương thức lãnh đạo của Đảng kéo dài nhiều năm trong thời kỳ chiến tranh chống ngoại xâm và thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp vẫn còn ảnh hưởng đến nay. Đồng thời còn do những hạn chế, khuyết điểm trong công tác tổ chức, cán bộ, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về hệ thống chính trị, những chậm trễ trong đổi mới chính trị và hệ thống chính trị...

Tình hình mới và một số quan điểm chỉ đạo định hướng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức đảng và đảng viên

Dự báo trong những năm tới tình hình thế giới vẫn tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường với nhiều xu hướng và mâu thuẫn mới, nhiều vấn đề mới nảy sinh. Sự nổi lên của chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cường quyền áp đặt trong quan hệ quốc tế. Cục diện thế giới có nhiều thay đổi, quan hệ giữa các nước lớn có nhiều biểu hiện mới, những xung đột vũ trang, những điểm nóng trên thế giới chưa được hạ nhiệt. Trong thời gian gần đây, tình hình thế giới rất khó dự báo, khó đoán định, gây nhiều bất ổn, lo âu cho các nước; tranh chấp chủ quyền Biển Đông vẫn diễn biến phức tạp. Kinh tế toàn cầu phát triển không ổn định gặp nhiều rủi ro, thị trường tài chính - tiền tệ biến động khó lường, xu hướng bảo hộ mậu dịch tăng lên. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 được đẩy mạnh, kinh tế tri thức, công nghệ - thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ.

Ở trong nước, từ sau Đại hội XII của Đảng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, an ninh chính trị được giữ vững, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường. Tuy vậy, bên cạnh đó, kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, tình trạng tham nhũng, tiêu cực, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ chưa được đẩy lùi. Cùng với đó, những diễn biến phức tạp của thời tiết, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường... đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.

Tình hình quốc tế và trong nước tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn tác động đan xen nhau đến sự phát triển đất nước, đến công tác xây dựng Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng. Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng để nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Trước tình hình mới, để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức đảng và đảng viên phải tuân theo một số quan điểm chỉ đạo chủ yếu:

Một là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân.

Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức; phải coi đổi mới phương thức lãnh đạo là một nhiệm vụ của xây dựng Đảng, tức xây dựng Đảng về phương thức lãnh đạo; phải coi trọng công tác cán bộ, chống tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong công tác cán bộ.

Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong xã hội, đẩy mạnh phân công, phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.

Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là công việc hệ trọng, nhạy cảm, liên quan đến lợi ích cá nhân, tập thể và của toàn Đảng, phải có quyết tâm chính trị cao, chủ động, tích cực, kiên quyết, kiên trì, đồng thời có bước đi vững chắc, có lộ trình, xác định rõ trọng tâm, trọng điểm, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.

Một số giải pháp chủ yếu

Thứ nhất, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị (trong đó có lý luận về Đảng cầm quyền); về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, hoạt động của các cơ quan, thiết chế Nhà nước (Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp); về vấn đề phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp...

Thứ hai, tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”(2). Như vậy Đảng lãnh đạo không chỉ thông qua các tổ chức Đảng mà còn thông qua các tổ chức nhà nước.

Thứ ba, cần sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Hiện nay, như Văn kiện Đại hội XII nhận định: “Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ”(3). Mô hình tổ chức đảng ở một số lĩnh vực chưa thật hợp lý, nhất là các tập đoàn, tổng công ty.

Vì vậy, cần nghiên cứu thí điểm hoặc nếu chín muồi, đủ điều kiện thì triển khai sắp xếp lại các tổ chức trong hệ thống chính trị. Có thể nghiên cứu, sáp nhập một số cơ quan đảng và cơ quan nhà nước tương đồng về chức năng. Việc sáp nhập tổ chức không phải chỉ vì giảm đầu mối mà làm sao hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao hơn. Không nên bố trí một công việc do nhiều cơ quan phụ trách làm “cắt khúc” trong quản lý để tránh chồng chéo, hoặc buông lỏng trách nhiệm trong quản lý. Có thể hợp nhất một số đơn vị sự nghiệp công lập ở cấp huyện (trên lĩnh vực y tế hoặc giáo dục); xã hội hóa những lĩnh vực dịch vụ công mà Nhà nước không cần nắm giữ. Cần nghiên cứu, xem xét vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Đảng đoàn, Ban Cán sự, Đảng ủy Khối ở một số cơ quan Trung ương và cấp tỉnh, mối quan hệ giữa Đảng đoàn, Ban Cán sự với Đảng ủy, lãnh đạo cơ quan. Cần nhất thể hóa một số chức danh lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cần có chỉ đạo thống nhất từ Trung ương xuống cơ sở đối với chủ trương này. Đảng lãnh đạo thông qua đảng viên thì trước hết đảng viên là người đứng đầu tổ chức, là những lãnh đạo chủ chốt. Vì vậy, Trung ương, Bộ Chính trị, các cấp ủy cần lựa chọn, bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời có cơ chế để kiểm tra, giám sát cán bộ, xác định rõ trách nhiệm đồng thời kiên quyết làm rõ và xử lý nghiêm minh đối với tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật, kỷ luật Đảng.

Thứ tư, đổi mới, hoàn thiện quy trình công tác cán bộ: Cơ chế phát hiện, thi tuyển, đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bầu cử, bổ nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm, bãi nhiệm, từ chức, đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Quy trình công tác cán bộ phải bảo đảm chặt chẽ, không tạo kẽ hở để người xấu, không xứng đáng lọt vào giữ những cương vị lãnh đạo trong bộ máy Đảng và Nhà nước. Bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XI và khóa XII. Phải kiên quyết đấu tranh, phòng, chống, đẩy lùi, ngăn chặn sự suy thoát về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng viên muốn là người lãnh đạo phải gương mẫu trước quần chúng, có lập trường chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ, không mắc phải chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”..., không rơi vào suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Muốn vậy, các cấp ủy, tổ chức Đảng phải tăng cường giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên, tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên.

Thứ sáu, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. Đổi mới cách ra nghị quyết theo hướng “thà ít mà tốt”, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt để thực hiện nghị quyết, coi trọng công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, giảm bớt nạn giấy tờ, hội họp, thực hiện theo phong cách Hồ Chí Minh là nói ít, làm nhiều, nói đi đôi với làm, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, làm cho dân tin, dân theo./.

--------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 197

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 144

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 193

Lê Hữu Nghĩa

GS, TS, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng

Nguồn Tapchicongsan.org.vn

Thu Quyên (st)

Bài viết khác: